Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính thăm và làm việc tại Công ty CP ô tô Trường Hải (THACO)
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh-nền tảng lý luận của công cuộc đổi mới
Năm 1986, sự khủng hoảng của các nước XHCN ở Đông Âu và Liên Xô đã tác động mạnh mẽ đến Việt Nam. Cùng với đó, là sự bao vây cấm vận toàn diện đối với nước ta, làm cho tình hình kinh tế-xã hội trong nước gặp vô vàn khó khăn, đặc biệt là về kinh tế, lạm phát lên tới hơn 770%. Đứng trước khó khăn thách thức, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định, phải tiến hành đổi mới toàn diện, trước hết là đổi mới tư duy nhận thức về tư tưởng, lý luận và đổi mới kinh tế. Đổi mới phải trên cơ sở kế thừa tư tưởng và lý luận cách mạng của Hồ Chí Minh.
Nhận thức là một quá trình. Đến Đại hội VII (1991) của Đảng, lần đầu tiên Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra (một cách chính thức) khái niệm “Tư tưởng Hồ Chí Minh”, đồng thời khẳng định lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng và nhân dân ta. Tiếp đến các Đại hội IX (2001), Đại hội XI (2011) và Đại hội XII (2016) của Đảng, trên cơ sở kế thừa, phát triển và hoàn thiện, khái niệm “Tư tưởng Hồ Chí Minh” được định nghĩa đầy đủ và khái quát hơn cả về nguồn gốc, cơ sở hình thành, nội dung và giá trị. Tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện tính độc lập, tự chủ và sáng tạo, không giáo điều, thiên kiến; là một hệ thống mở, trân trọng các giá trị văn hóa của dân tộc và nhân loại; phản ánh từ lịch sử đến hiện tại, có giá trị bền vững. Đồng thời thể hiện một hệ thống luận điểm có giá trị nền tảng, định hướng cho sự phát triển của cách mạng Việt Nam, tiếp tục soi sáng cho công cuộc đổi mới.
Thứ nhất, về bản chất “đổi mới”: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, bản chất của cách mạng là đổi mới, phát triển (theo hướng tích cực), cho nên đổi mới phải nhằm mục tiêu phục vụ nhân dân và là sự nghiệp của toàn dân. Trong bản Di chúc thiêng liêng, khi nói về công cuộc kiến thiết đất nước sau khi kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi, Hồ Chí Minh căn dặn: Đảng phải có chủ trương, kế hoạch kỹ càng, chu đáo để tiến hành thắng lợi, bởi vì “Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân”.
Thứ hai, về triết lý và mục tiêu đổi mới: Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, triết lý đổi mới rất ngắn gọn: “ích nước, lợi dân”-đó là chân lý. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Chân lý là cái gì có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân. Cái gì trái với lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân tức là không phải chân lý”. Mục tiêu đổi mới trước hết phải nhằm phục vụ sự phát triển đất nước, phục vụ nhân dân.
Thứ ba, về phương châm đổi mới: “Việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm. Việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”. Đổi mới là sự nghiệp lâu dài, phức tạp, gian khổ; phải kiên định, kiên trì, kiên quyết, lựa chọn bước đi thích hợp, không nôn nóng chủ quan mới giành thắng lợi. Hồ Chí Minh căn dặn: “...thắng đế quốc, phong kiến là tương đối dễ; thắng bần cùng và lạc hậu khó hơn nhiều”; đấu tranh xóa bỏ cái cũ, xây dựng cái mới là công việc cực kỳ to lớn, nặng nề, phức tạp và khó khăn, do vậy phương châm kế hoạch phải chuẩn bị chu đáo, tỉ mỉ, thực hiện chắc chắn.
Thứ tư, về nguyên tắc đổi mới: Nguyên tắc tiến hành đổi mới là dựa vào dân, sức mạnh của đổi mới là nhân dân. Hồ Chí Minh luôn căn dặn: “công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân”; để giành thắng lợi “cần phải động viên toàn dân, tổ chức giáo dục nhân dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của nhân dân”. Phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, theo tinh thần cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đổi mới không phải là phủ định sạch trơn mà là sự kế thừa và phát triển; cái cũ mà xấu thì phải bỏ, cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi cho hợp lý, cái gì cũ mà tốt thì phát triển thêm, cái gì mới mà hay thì phải làm (nguyên tắc kết thừa và phát triển).
Thứ năm, vai trò lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp đổi mới: Hồ Chí Minh khẳng định: “Trước hết phải có đảng cách mệnh... Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”. Đảng khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin và kinh nghiệm thực tiễn thế giới vào điều kiện cụ thể Việt Nam một cách sáng tạo, phù hợp. Toàn Đảng quán triệt và thực hành theo tinh thần cách mạng Hồ Chí Minh: “Thế giới ngày ngày đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ, cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân”.
Hệ thống quan điểm, luận điểm về đổi mới của Hồ Chí Minh được Người diễn đạt giản dị, dễ hiểu nhưng hàm chứa chiều sâu, tầm cao về tư tưởng; thể hiện sự đúc kết tinh túy tri thức dân tộc và nhân loại, cho nên cần tiếp tục nghiên cứu thấu đáo để bổ sung, phát triển, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn cách mạng Việt Nam hiệu quả hơn. Thực tiễn công cuộc đổi mới ở Việt Nam đã chứng minh rõ ràng rằng, cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh-nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động, là cơ sở nền tảng, định hướng công cuộc đổi mới toàn diện và sự nỗ lực, không ngừng sáng tạo của dân tộc Việt Nam, đã đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng, vượt qua khó khăn, thử thách và giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Nhìn một cách khái quát, về chính trị: Việt Nam đã giữ vững thể chế chính trị, ổn định tình hình trong nước, tạo môi trường cho phát triển; vị thế trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Việt Nam đã thành công trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho môi trường đầu tư, phát triển.
Về kinh tế: Chuyển đổi thành công cơ chế quản lý kinh tế, từ cơ chế quan liêu bao cấp, sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; từ nền sản xuất tự cung tự cấp, nhỏ lẻ, manh mún, nền kinh tế sản xuất theo kế hoạch, duy ý chí sang nền kinh tế sản xuất hàng hóa theo quy luật thị trường (cung cầu, giá trị...); chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ một nền kinh tế thuần nhất thành phần (nhà nước và tập thể), chủ yếu dựa vào nông nghiệp sang nền kinh tế nhiều thành phần, với cơ cấu: công-nông nghiệp, dịch vụ, thương mại (xuất, nhập khẩu); từ một nước không đủ lương thực, tiêu dùng, trở thành nước xuất khẩu gạo và nhiều mặt hàng nông, lâm nghiệp đứng hàng đầu thế giới.
Về đối ngoại: Thực thi đường lối đối ngoại đa phương, rộng mở, đến nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 189/193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc, thiết lập quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với 30 nước. Là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế: Ủy ban Nhân quyền Liên hợp quốc; hai lần được bầu làm Ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc; tham gia ký kết và là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế.
Về văn hóa-xã hội: Phát huy và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trên cơ sở tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới làm giàu cho văn hóa Việt Nam; xây dựng xã hội văn minh, nhân văn hướng về con người; thực hiện thành công nhiều chương trình xã hội (xóa đói giảm nghèo; chương trình xây dựng nông thôn mới; xóa nạn mù chữ, phổ cập trình độ tiểu học cho toàn dân; hoàn thành trước thời gian chương trình Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc). Đến nay có trên 70% số dân có bảo hiểm y tế, tiến tới hỗ trợ cho nhân dân, bảo đảm 100% bảo hiểm y tế toàn dân; chương trình nước sạch...
Về quốc phòng-an ninh: Giữ vững chủ quyền quốc gia, biển đảo; bảo vệ vững chắc biên giới lãnh thổ; đảm bảo an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục soi sáng công cuộc đổi mới
Sau hơn 30 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, thế và lực của Việt Nam tăng lên rất nhiều, thể hiện trên nhiều mặt, nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, cùng với cơ hội, thuận lợi, nhiều khó khăn - thách thức cần phải vượt qua. Trên thế giới, chủ nghĩa bảo hộ, chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa dân tộc cực đoan... đang nổi lên, cản trở quá trình hội nhập, phát triển của các quốc gia. Xu hướng cạnh tranh ngày càng quyết liệt trên thế giới; sự điều chỉnh chiến lược của các nước lớn trên thế giới và khu vực, đặc biệt là chiến tranh thương mại Trung - Mỹ có ảnh hưởng mạnh mẽ đến khu vực châu Á - Thái Bình Dương và Việt Nam. Về kinh tế, trong tương quan lực lượng thế giới và khu vực, vị thế của Việt Nam chưa cao (GDP đứng ở tốp cuối các nước ASEAN), nguy cơ tụt hậu còn rất lớn vì năng suất lao động thấp, cạnh tranh hàng hóa yếu; phát triển thiếu bền vững... Về chính trị, tư tưởng, có một bộ phận xã hội bị phân tâm do ảnh hưởng của sự suy thoái tư tưởng, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tệ tham nhũng trong cán bộ, đảng viên làm giảm sức mạnh đại đoàn kết dân tộc. Các vấn đề ô nhiễm môi trường sinh thái, an toàn thực phẩm, giao thông... đang rất cần quan tâm giải quyết. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động đến mọi mặt đời sống xã hội và tư duy, cho nên phải nhanh chóng và kiên quyết đổi mới, trên cơ sở tiếp tục vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Từ thực tiễn đặt ra, Đảng khẳng định: Tiếp tục vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay. Quán triệt sâu sắc giá trị triết lý đổi mới của Hồ Chí Minh là: “Ích nước, lợi dân”, chống chủ nghĩa cá nhân dưới mọi hình thức, chống lợi ích nhóm. Vận dụng quan điểm có tính nguyên tắc trong đổi mới của Hồ Chí Minh để hoạch định chủ trương, xây dựng đường lối và các chính sách phát triển đất nước. Đổi mới lý luận phải bám sát thực tiễn, gắn với yêu cầu thực tiễn. Tăng cường công tác tổng kết thực tiễn - phát triển lý luận, lấy thực tiễn để kiểm nghiệm lý luận; kiên quyết loại bỏ những quan điểm lý luận đã lỗi thời, hoặc không còn phù hợp, bị lịch sử vượt qua. Đổi mới phải trên cơ sở quan điểm lịch sử cụ thể: Khi vận dụng tư tưởng đổi mới của Hồ Chí Minh, không lệ thuộc vào câu chữ, mà vận dụng tư tưởng, phương pháp, phong cách Hồ Chí Minh, đặt trong hoàn cảnh cụ thể. Đồng thời, phải có cái nhìn toàn diện và hệ thống: Nghiên cứu vận dụng phát triển tư tưởng đổi mới của Hồ Chí Minh phải đặt trong chỉnh thể thống nhất, không cục bộ, chia cắt; xem xét trong tương quan với cái chung, với các mối quan hệ khác, tư tưởng khác. Mặt khác, phải quán triệt quan điểm kế thừa và phát triển: Kiên định mục tiêu chiến lược: Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH; Cách mạng là sự nghiệp của toàn dân; Dĩ bất biến, ứng vạn biến... Kiên định con đường độc lập dân tộc và CNXH; không ngừng sáng tạo xây dựng đất nước theo con đường XHCN với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Kiên định nhưng không giáo điều; kết hợp tổng kết thực tiễn đất nước với nắm bắt xu, dự báo chính xác xu thế phát triển của thế giới; cập nhật những tri thức mới, không ngừng hoàn thiện đường lối đổi mới, đáp ứng những đòi hỏi khách quan của thực tiễn đất nước, phù hợp với xu thế của thời đại. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; phát huy nguồn lực trong nước, đồng thời tranh thủ, tận dụng thời cơ của các nguồn lực bên ngoài để phát triển kinh tế. Chú trọng xây dựng môi trường đầu tư, ổn định cả về hệ thống pháp luật và cơ hội; nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất và kinh doanh; từng bước minh bạch và bình đẳng trong sản xuất - kinh doanh giữa các thành phần kinh tế.
Đối với Đảng, phải tăng cường công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của toàn dân tộc. Để xứng đáng với vai trò là Đảng cầm quyền, lãnh đạo công cuộc đổi mới, như Hồ Chí Minh căn dặn: “việc cần làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân”. Vì vậy cần tiếp tục tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực trí tuệ, phẩm chất và đạo đức cách mạng, làm cho Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh, củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân đối với Đảng.
Xây dựng Đảng về đạo đức, cần chú trọng rèn luyện cán bộ theo tinh thần Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016, của Bộ Chính trị “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Đối với mình, người cán bộ lãnh đạo phải có tư tưởng trung với nước, hiếu với dân, trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước; thương dân, phục vụ hết lòng để được dân tin yêu, quý mến. Đối với người, cụ thể là quan hệ với cấp trên, cấp dưới và nhân dân, không nịnh hót người trên, không xem khinh người dưới, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, thật thà, không dối trá, lừa lọc. Đối với việc, để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà. Đã phụ trách việc gì thì quyết làm cho được, cho đến nơi, đến chốn, không sợ khó khăn, nguy hiểm, việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm, việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh. Mỗi cán bộ, phải luôn tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, thương yêu con người, sống có tình, có nghĩa.
Đối với cán bộ lãnh đạo, phải xây dựng cho mình phong cách tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo, “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” để xử lý các mối quan hệ, nhất là quan hệ giữa chiến lược và sách lược phù hợp với hoàn cảnh cụ thể. Cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu cần có tác phong làm việc, lãnh đạo dân chủ, quần chúng, tôn trọng quyền bình đẳng của mọi người, phát huy trí tuệ tập thể; phải coi: “thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng” để giải quyết mọi công việc, nhất là những công việc có liên quan trực tiếp với nhân dân. Chăm lo phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nhân tài một cách hợp lý. Xây dựng phong cách làm việc khoa học, khắc phục triệt để lối tư duy chủ quan, duy ý chí, áp đặt khi đề ra đường lối, chính sách và cả những chủ trương, biện pháp cụ thể. Nắm vững lý luận, quy luật khách quan, nâng cao năng lực vận dụng sáng tạo quy luật vào thực tiễn của đất nước, của từng địa phương, ngành, lĩnh vực hoạt động. Thường xuyên rèn luyện, nâng cao năng lực tư duy chiến lược, có tầm nhìn xa, năng lực dự báo, nắm vững những vấn đề tổng thể, vĩ mô để xử lý đúng mục tiêu. Mỗi người cán bộ lãnh đạo là một tấm gương hành động, nói phải đi đôi với làm, được nhân dân quý mến, tin tưởng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã và luôn định hướng, soi sáng con đường cách mạng của Đảng và nhân dân Việt Nam đi đến thắng lợi vĩ đại. Chưa bao giờ Việt Nam đứng trước nhiều cơ hội to lớn như hiện nay và cũng chưa bao giờ môi trường kinh tế - xã hội, an ninh... của Việt Nam lại chịu sự tác động, thách thức từ nhiều vấn đề phức tạp, đa chiều, đa hướng như bây giờ. Cơ hội và thách thức đan xen với nhau, nếu không kịp thời tranh thủ, cơ hội sẽ biến thành thách thức; nếu “hóa giải” thành công, thách thức sẽ chuyển thành cơ hội cho đất nước phát triển. Do vậy, trong giai đoạn tiếp theo của công cuộc đổi mới, cần tiếp tục nghiên cứu, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, để vận dụng sáng tạo vào thực tiễn, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra, chủ động nắm bắt thời cơ, vận hội mới trong tình hình mới.

Bài đăng trên Tạp chí Lịch sử Đảng, số 12/2019